8. Hồng lục thái: Hồng lục thái là đồ sứ men trắng được nung đốt trong nhiệt độ cao, sau đó được sơn và vẽ lên văn dạng màu đỏ, xanh lục, vàng. Rồi lại tiếp tục đưa vào lò nung với nhiệt độ trên dưới 800℃. Vì thế nó cũng có tên là “Tống gia thái” hoặc “Kim gia thái”. Hồng lục thái thường sử dụng men trắng làm màu nền, các họa tiết chính là màu đỏ và xanh lá, mỗi màu để có sự đậm nhạt khác nhau. Màu đỏ thường dùng là đỏ tươi hoặc đỏ mận chín. Màu xanh thường dùng là xanh lá cây, xanh biếc, xanh sẫm. Ngoài ra còn có thêm sắc vàng làm điểm nhấn như màu vàng kim hay vàng nhạt. Sự kết hợp màu này là một đặc trưng của nghệ thuật trang trí sứ thời kỳ Tống, Nguyên.

9. Phàn hồng thái: Phàn hồng thái hay còn được gọi là “Thiết hồng dứu”, đồ sứ này sử dụng một loại men màu đỏ với độ oxit sắt được nung trong nhiệt độ thấp, khi nung thành màu sắc biến thành màu đỏ cam. Mặc dù so với những đồ sứ được nung ở nhiệt độ cao thì quá trình của nó đơn giản và dễ dàng hơn nhiều, tuy không có màu đỏ đồng thuần khiết diễm lệ nhưng sắc thái là khá ổn định. Phàn hồng thái được bắt đầu sản xuất từ thời vua Gia Tĩnh nhà Minh. Đến thời Khang Hy nó đã có sự tiến bộ, về màu sắc cũng như văn dạng đều được nâng cao lên một bậc.

10. Thiển giáng thái: Sứ thiển giáng thái là một sáng tạo mới trong lò nung Cảnh Đức Trấn trong cuối thời đại nhà Thanh. Tất cả những nghệ thuật thư họa Trung Hoa đều được thể hiện trên bề mặt sứ, kết hợp tranh truyền thống và đồ sứ mang đến một diện mạo mới cho cả hai phương diện. Chủ yếu đề tài hội họa là những bức tranh phong cảnh, đặc biệt sử dụng kỹ thuật đậm nhạt xen nhau, từ phôi đầu tiên vẽ ra hoa văn, nhuộm với màu xanh lá nhạt, nước xanh, cỏ xanh v.v. sau đó tráng một lớp men màu với nhiệt độ thấp, khoảng 650 đến 700℃.

11. Kim thái: Kim thái đề cập đến một loại men có màu vàng kim, dùng như một thủ pháp trang trí đồ sứ. Trong thời cổ đại, sứ được trang trí bằng màu vàng thường được cho là có nguồn gốc từ thời nhà Tống, đặc biệt là sứ kim hoa diêu uy danh một thời. Vào đầu thời Minh, Cảnh Đức Trấn mới bắt đầu có sứ kim thái, nhưng phương pháp sử dụng lớp men vàng thì không thể so sánh với lò nung thời kỳ nhà Tống.

12. Nghiễm thái: Nghiễm thái là danh xưng của nghệ thuật đồ sứ xuất phát từ địa khu Quảng Châu, hay còn được gọi là “Quảng Châu thái” hoặc “Quảng Châu chức kim thái sứ”. Nó đề cập đến một loại men nhiều màu được nung đốt ở nhiệt độ thấp. Nghiễm thái có kết cấu chặt chẽ, sắc thái nồng diễm, nguy nga lộng lẫy, giống như tơ ngọc trắng dệt kim, đến nay đã có 300 năm lịch sử. Sứ nghiễm thái phát triển chủ yếu nhờ cảng thương mại nước ngoài ở Quang Đông, những thương nhân Tây Âu hay nhưng hoàng gia cung điện Tây Âu rất thích sử dụng đồ sứ này để trang trí trong cung điện. Vì thế mà sau này các văn dạng được sản xuất cũng hướng đến những người Tây Âu, định thức chế tạo mang màu sắc văn hóa tây phương. Nội dung của trang sức vô cùng phong phú, hoa hạ đặc sắc, cũng có cẩm cốc sơn trang, tả thực cảnh sắc đình viện, thậm chí có khắc họa nhân vật các loại.
